blog posts

Cisco UCS Manager – Phần 1

Việc triển khai các tài nguyên máy chủ trong các trung tâm dữ liệu hiện nay đã trở thành một hoạt động khó khăn, mất nhiều thời gian và dễ phạm sai sót và đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa nhiều chuyên gia ở nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm cả các nhà quản trị máy chủ, mạng

Thách thức

Việc triển khai các tài nguyên máy chủ trong các trung tâm dữ liệu hiện nay đã trở thành một hoạt động khó khăn, mất nhiều thời gian và dễ phạm sai sót và đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa nhiều chuyên gia ở nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm cả các nhà quản trị máy chủ, mạng, và thiết bị lưu trữ. Hiện nay, kể cả trong các tổ chức đang chuyển sang sử dụng các phương pháp dựa trên khái niệm về ITIL (Information Technology Infrastructure Library – Thư viện Cơ sở hạ tầng CNTT), các nhà quản trị vẫn thường phải sử dụng các ứng dụng quản lý đơn lẻ để định cấu hình từng thành phần một cách thủ công, bao gồm cả cập nhật firmware, thiết lập các tham số BIOS, cấu hình giao diện và cấu hình kết nối lớp truy nhập dành cho các mạng LAN và SAN.

Kể cả khi đã có sự thận trọng cao nhất trong khi thực thi những tác vụ này theo đúng những tiêu chuẩn có sẵn, thì các bước thực hiện thủ công và việc sử dụng các công cụ quản lý phần tử đơn lẻ khác nhau bởi các nhà quản trị khác nhau vẫn biến quá trình đó trở nên rất dễ phạm sai sót. Một tác vụ định cấu hình mất cùng một lượng thời gian trên mỗi tác vụ dù tác vụ đó được thực hiện 1 lần hay 100 lần. Tất cả những nhân tố này kết hợp với nhau kéo dài thời gian cần thiết để triển khai và triển khai lại một tài nguyên máy chủ và làm cho các nhà quản trị phải dành thời gian quý báu của họ vào những hoạt động tẻ
nhạt và mất thời gian thay cho tập trung vào những vấn đề kinh doanh quan trọng. Ngoài ra, quá trình rời rạc này cũng gây khó khăn cho việc đưa ra được một bản ghi kiểm toán hợp nhất, giúp duy trì hoạt động tuân thủ tiêu chuẩn và theo dõi tất cả các tác vụ định cấu hình thiết bị chi tiết và quan trọng.

Những lợi ích kinh doanh của Cisco UCS Manager

Cisco®  UCS Manager khắc phục những vấn đề trên bằng cách tích hợp các chức năng điện toán, mạng, lưu trữ và ảo hóa vào trong một hệ thống tích hợp, được thiết kế để hạ thấp tổng chi phí sở hữu (TCO) và nâng cao độ linh hoạt trong kinh doanh. Cisco UCS Manager cung cấp các năng lực quản lý tập trung, tạo ra một miền quản lý hợp nhất và đóng vai trò của hệ thần kinh trung ương của Hệ thống Điện toán Hợp nhất của Cisco (Cisco Unified Computing System™). Nó quản lý hệ thống một cách toàn diện dưới dạng một thực thể thống nhất sử dụng một giao diện đồ họa (GUI) trực quan, với những tùy chọn về Giao diện dòng lệnh (CLI) và Giao diện lập trình ứng dụng (API) XML, giúp đẩy nhanh tốc độ định cấu hình và tái định cấu hình các tài nguyên, nhờ đó mà các tác vụ trước đây phải mất nhiều ngày hoặc nhiều giờ thì giờ đây có thể được hoàn thành trong vòng vài phút (Hình 1).

Cisco UCS Manager tách các tác vụ quản trị khỏi việc định cấu hình hệ thống đơn lẻ, tách biệt, thường thiếu thông tin về ngữ cảnh và tính khả kiến, chuyển sang quản lý dựa trên vai trò và chính sách để cung cấp thông tin trên toàn bộ hệ thống. Một trường hợp (instance) của ứng dụng quản lý có thể quản lý hai thiết bị chuyển mạch Cisco UCS 6100 Series, nhiều khung máy chủ phiến Cisco UCS 5100 Series, nhiều thiết bị mở rộng chuyển mạch Cisco UCS 2100 Series, và hàng trăm máy chủ phiến Cisco UCS B-Series trong một miền quản lý duy nhất. Hoạt động quản trị dựa trên chính sách và vai trò không chỉ hạ thấp xác suất xảy ra sai sót mà còn cho phép các hệ thống được thiết kế và định nghĩa chỉ một lần duy nhất, dựa trên các đặc tả kỹ thuật của mỗi chuyên gia lĩnh vực (máy chủ, mạng, lưu trữ), và sau đó triển khai lặp lại trong một hoạt động đơn giản thông qua một trong những giao diện người dùng của ứng dụng quản lý. Khuynh hướng này tách biệt các quy trình kiến trúc và thiết kế phức tạp khỏi hoạt động triển khai, hỗ trợ một trung tâm dữ liệu uyển chuyển, có khả năng thích ứng cao hơn trong khi vẫn hạ thấp được xác suất sai sót có thể gây ra gián đoạn hoạt động của ứng dụng hoặc làm giảm các cấp độ dịch vụ.

Thiết kế dựa trên vai trò của Cisco UCS Manager hỗ trợ các thông lệ tối ưu hiện nay, cho phép các nhà quản trị máy chủ, mạng và thiết bị lưu trữ đóng góp kiến thức chuyên mộn theo lĩnh vực cụ thể của họ vào một thiết kế hệ thống. Bất kỳ vai trò nhà quản trị nào đều có thể được hạn chế vào một tập hợp con của các tài nguyên hệ thống sử dụng các chức năng Tổ chức (organizations) và Khu vực (Locales), nhờ đó một Hệ thống Điện toán Hợp nhất của Cisco có thể được phân vùng và được chia sẻ giữa các tổ chức dựa trên một mô hình đa người dùng.

Mọi máy chủ được cung cấp trong Hệ thống Điện toán Hợp nhất của Cisco đều được xác định bởi một Hồ sơ Dịch vụ (service profile). Một Hồ sơ Dịch vụ là một định nghĩa phần mềm của một máy chủ và các kết nối mạng LAN và SAN liên quan. Các hồ sơ dịch vụ cho phép các tài nguyên máy chủ được xử lý như là dung lượng điện toán thô và có thể được
phân bổ hay tái phân bổ giữa các tải ứng dụng, cho phép sử dụng linh động và hiệu quả dung lượng máy chủ không phụ thuộc vào việc phần mềm ảo hóa máy chủ nào đang được sử dụng. Việc triển khai máy chủ sử dụng hồ sơ dịch vụ chỉ mất vài phút chứ không phải vài ngày hay vài tuần.

Các Hồ sơ Dịch vụ được tạo ra bởi các nhà quản trị máy chủ, mạng và thiết bị lưu trữ, sau đó được lưu trữ trong Chuyển mạch Cisco UCS 6100 Series. Khi một hồ sơ dịch vụ được triển khai trên một máy chủ trong kho tài nguyên điện toán, ứng
dụng quản lý tự động định cấu hình máy chủ, các adapter mạng, thiết bị mở rộng chuyển mạch và thiết bị chuyển mạch để hỗ trợ cấu hình đã được xác định trong hồ sơ dịch vụ. Cấu hình thiết bị tự động này giảm số lượng các bước thủ công cần thiết để định cấu hình các máy chủ, card giao diện mạng (NIC), adapter bus máy chủ (HBA) và các thiết bị chuyển mạch LAN và SAN. Việc giảm được số lượng các bước thủ công giúp giảm bớt sai sót của con người, nâng cao độ ổn định và rút ngắn thời gian triển khai máy chủ. Một hồ sơ dịch vụ mô tả về cách mà tất cả các cài đặt thiết bị và firmware chi tiết trong hệ thống điện toán cần phải được định cấu hình, bao gồm cả cấp độ RAID của các ổ đĩa nội bộ trong máy chủ, các thiết đặt BIOS như là trình tự khởi động máy, các cấp độ phiên bản firmware của BIOS và adapter mạng, định danh và thiết đặt NIC và HBA, các thiết đặt mạng dành cho các thành viên VLAN và VSAN cũng như chất lượng dịch vụ (QoS) của băng thông, các quy định về chân kết nối giao diện uplink.

●   Các khuôn mẫu hồ sơ dịch vụ cũng được tạo ra bởi các nhà quản trị, và chúng định nghĩa nên các chính sách để tạo ra một loại hồ sơ dịch vụ cụ thể. Ví dụ như, chúng có thể xác định kết nối mạng tiêu chuẩn dành cho một máy chủ web và kho tài nguyên từ đó có thể lấy các địa chỉ MAC của giao diện của nó. Các khuôn mẫu hồ sơ dịch vụ có thể được sử dụng để cung cấp nhiều máy chủ với mức độ đơn giản giống như là khi tạo ra một máy chủ.
Các hồ sơ dịch vụ và các tham số liên quan của chúng có thể được tạo ra, điều chỉnh và giám sát bởi các công cụ quản lý hệ thống bên ngoài thông qua một API XML toàn diện. Một API duy nhất cũng hỗ trợ việc tích hợp với các cơ sở dữ liệu quản lý cấu hình bên ngoài (CMDB) để quản lý trang thiết bị và theo dõi tài sản, bao gồm cả theo dõi các thông tin cấu hình và trạng thái chi tiết. Các hồ sơ dịch vụ định cấu hình các tài nguyên thuộc về một hệ điều hành hoặc hypervisor về mặt lô-gic, nhờ đó ứng dụng quản lý có thể được sử dụng cùng với các công cụ quản lý cấp độ cao hơn đảm trách việc cung cấp
và vá các lỗ hổng an ninh trên các hệ điều hành, ứng dụng và phần mềm ảo hóa.

Ngoài việc quản lý Hệ thống Điện toán Hợp nhất của Cisco, Cisco UCS Manager còn hỗ trợ các hệ thống giám sát và quản lý sự kiện tiêu chuẩn, cung cấp dữ liệu cho các công cụ quản lý doanh nghiệp tiêu chuẩn thông qua một số API theo tiêu chuẩn công nghiệp, bao gồm cả SNMP (Simple Network Management Protocol), IPMI (Intelligent Platform Management Interface) và SMASH-CLP (Systems Management Architecture for Server Hardware Command Line Protocol).
Cisco UCS Manager quản lý các phần tử trong một Hệ thống Điện toán Hợp nhất của Cisco dưới dạng một hệ thống đơn nhất, và nó thực hiện điều đó mà không gây gián đoạn hoạt động của chức năng phân chia trách nhiệm hiện tại và các thông lệ tối ưu của trung tâm dữ liệu. Phần còn lại của tài liệu này mô tả về Cisco UCS Manager.

Giải pháp Cisco UCS Manager:Khai thác sức mạnh của Hệ thống Điện toán Hợp nhất của Cisco 

Cisco UCS Manager đồng bộ hóa các thành phần độc lập của một Hệ thống Điện toán Hợp nhất của Cisco trong các máy chủ được kết nối với nhau và được kết nối với các thiết bị chuyển mạch LAN và SAN ở lớp tập trung lưu lượng hướng lên. Mọi thành phần của một Hệ thống Điện toán Hợp nhất của Cisco đều được thiết kế để đảm bảo tính linh hoạt và uyển chuyển, với các tham số cấu hình, định danh và kết nối được định nghĩa theo nhu cầu để đáp ứng một mục đích kinh doanh cụ thể. Các thành phần của một Hệ thống Điện toán Hợp nhất của Cisco thông thường của Cisco bao gồm (Hình 2):

Một cặp thiết bị chuyển mạch Cisco UCS 6100 Series với các kết nối LAN và SAN hướng lên với lớp tập trung lưu lượng. Cisco UCS Manager nằm bên trong thiết bị chuyển mạch, có trạng thái được đồng bộ giữa hai thiết bị để nâng cao độ sẵn sàng của ứng dụng quản lý để duy trì hoạt động khi xảy ra sự cố đối với một thiết bị chuyển mạch. Thiết bị chuyển mạch hỗ trợ một mạng hợp nhất đảm nhiệm việc kết nối mọi tài nguyên máy chủ trong hệ thống: hiện nay là nhiều khung hệ thống máy chủ phiến và hàng trăm máy chủ phiến.

Một cặp thiết bị mở rộng chuyển mạch Cisco UCS 2100 Series đưa chuyển mạch hợp nhất vào trong từng khung máy chủ phiến. Thiết bị mở rộng chuyển mạch chuyển tiếp lưu lượng sử dụng một kiến trúc nối thông (cut-through architecture) từ adapter I/O thường trú trong máy chủ phiến sang thiết bị chuyển mạch hợp nhất bao gồm DCB (Data Center Bridging), FCoE (Fibre Channel over Ethernet) và các phần mở rộng bổ sung dựa trên tiêu chuẩn được thiết kế để quản lý tốt hơn chất lượng dịch vụ (QoS) của mạng.
Adapter mạng của Cisco UCS cung cấp các giao diện I/O với các tài nguyên máy chủ trong một cấu trúc mezzanine-card. Ba kiểu adapter khác nhau đảm bảo một loạt các tùy chọn để đáp ứng các yêu cầu của ứng dụng, bao gồm cả các adapter được tối ưu hóa dành cho ảo hóa, tương thích với các trình điều khiển hiện tại và kết nối Ethernet hiệu quả, có hiệu năng cao.

Tất cả các adapter mạng đều có hai cổng chuyển  mạch hợp nhất: mỗi cổng được kết nối thông qua midplane của khung máy với từng thiết bị mở rộng chuyển mạch.

Hình 2. Hệ thống Điện toán Hợp nhất của Cisco bao gồm thiết bị chuyển mạch, thiết bị mở rộng chuyển mạch, khung máy chủ phiến, máy chủ phiến và các adapter mạng

Adapter Cisco UCS 82598KR-CI 10 Gigabit Ethernet được thiết kế dưới dạng một giao diện Ethernet hiệu quả và có hiệu năng cao.
Các adapter mạng hội tụ Cisco UCS M71KR-E Emulex và M71KR-Q QLogic cung cấp hai NIC 10 Gigabit Ethernet và hai HBA 4-Gbps Fibre Channel với hệ điều hành hoặc hypervisor. Có hai model thiết bị, được trang bị chip ASIC Emulex hoặc Qlogic, cho phép sử dụng các trình điều khiển và phần mềm quản lý tiêu chuẩn do các nhà sản xuất cung cấp, đảm bảo tính tương thích với các mạng lưu trữ SAN và tủ lưu trữ hiện tại.

Card Giao diện ảo Cisco UCS M81KR (VIC) cung cấp 128 adapter ảo có kiểu (Ethernet NIC hoặc Fibre Channel HBA) và định danh (địa chỉ MAC và tên toàn cầu [WWN]) được lập trình theo nhu cầu thông qua phần mềm để tương thích giữa kiểu adapter với các yêu cầu kết nối của từng máy ảo. (Tám trong số các giao diện được dành riêng cho việc sử dụng của hệ thống.) Adapter này, được kết hợp cùng với ứng dụng quản lý VMware vCenter và máy chủ ESX, triển khai các tính năng Cisco VN-Link với khả năng hỗ trợ các kết nối mạng trực tiếp với từng máy ảo. Giống với hoạt động của các thiết bị chuyển
mạch Cisco Nexus®  1000V Series, sự kết hợp giữa adapter, ứng dụng quản lý và các sản phẩm VMware cung cấp kết nối máy ảo dựa trên chính sách, tính di động của mạng và các thuộc tính an ninh trong quá trình di chuyển máy ảo, và một mô hình hoạt động không gián đoạn trong đó các nhà quản trị mạng quản lý các mạng và các nhà quản lý máy chủ quản lý các máy chủ.

Mỗi khung máy chủ phiến Cisco UCS 5100 Series đều chứa các máy chủ phiến và thiết bị mở rộng chuyển mạch. Khung máy chủ phiến cung cấp nguồn điện và làm mát, và các cấu  phần của nó cùng với các đặc tính môi trường được giám sát bởi Cisco UCS Manager.

Từng khung máy có thể chứa tới 8 máy chủ phiến Cisco UCS B-Series có độ rộng một nửa hoặc độ rộng đầy đủ, tạo ra số lượng tới hàng trăm máy chủ trên mỗi Hệ thống Điện toán Hợp nhất của Cisco. Máy chủ phiến Cisco UCS B200 M2 là một máy chủ hai socket, nửa độ cao được trang bị tối đa hai bộ xử lý Intel Xeon 5600 series, bộ nhớ chính lên tới 96 GB, tối đa 2 ổ đĩa SAS kích thước nhỏ (Small Form Factor – SFF) với RAID 0 và 1 được tích hợp on-board và một khe cắm adapter mạng. Máy chủ phiến với bộ nhớ mở rộng Cisco UCS B250 M2 là một máy chủ hai socket, đủ độ rộng, được trang bị tối đa hai bộ xử lý Intel Xeon 5600 Series, bộ nhớ chính lên tới 384 GB, tối đa hai ổ đĩa SFF và hai khe cắm adapter mạng.  Khung máy cũng có thể chứa máy chủ phiến hiệu năng cao Cisco UCS B440 M1 mới được giới thiệu gần đây, được trang bị hai hoặc bốn bộ xử lý đa lõi Intel Xeon 7500 series. Máy chủ phiến Cisco UCS B440 M1 cân đối tới 32 lõi xử lý và 256 GB bộ nhớ chính với thông lượng I/O tích hợp lên tới 40 Gbps. Các năng lực đảm bảo hiệu năng này được kết hợp với các tính năng độ tin cậy, độ sẵn sàng và khả năng sửa chữa RAS (reliability, availability, and serviceability) toàn diện ở cấp độ chip và cấp độ hệ thống giúp cho máy chủ này trở thành một trong những hệ thống có thể được ứng dụng trong môi trường trọng yếu.

Mô hình “Kết nối Một lần”
Hệ thống Điện toán Hợp nhất của Cisco được thiết kế theo mô hình “Kết nối một lần, Không cần quan tâm nữa”, trong đó:
Cơ sở hạ tầng cáp và mạng hỗ trợ một chuyển mạch hợp nhất trong đó các tính năng như là FCoE có thể được hỗ trợ thông qua Cisco UCS Manager theo yêu cầu.
Mọi phần tử trong cấu trúc đều có thể lập trình và được quản lý bởi Cisco UCS Manager sử dụng mô hình cung cấp dịch vụ theo nhu cầu.  Ứng dụng quản lý có thể định cấu hình thông tin danh tính, bao gồm cả  UUID (universally unique identifier – định danh duy nhất trên toàn cầu) của máy chủ, địa chỉ MAC, và WWN của các adapter mạng.
Nó có thể cài đặt các tập hợp firmware đồng nhất trên toàn bộ cấu trúc hệ thống, bao gồm cả BMC (baseboard management controller – bộ điều khiển quản lý board mạch chính), bộ điều khiển RAID, firmware của adapter mạng, và firmware thiết bị mở rộng chuyển mạch của từng máy chủ phiến.
Nó có thể định cấu hình các đặc tính hoạt động của mọi cấu phần trong cấu trúc, từ cấp độ RAID phần cứng của các ổ đĩa onboard cho tới các cấu  hình cổng hướng lên trong chuyển mạch Cisco UCS 6100 Series và mọi thứ nằm ở trung gian.
Nó có thể định cấu hình các kiểu giao diện I/O trên adapter Cisco UCS M81KR VIC. Tầm quan trọng của năng lực này phải được đánh giá đúng: khi một tài nguyên máy chủ được định cấu hình với card mezzanine này thì số hiệu, kiểu (HBA hay NIC) và định danh (WWN và địa chỉ MAC) của giao diện I/O có thể được lập trình sử dụng năng lực cung cấp theo nhu cầu. Khuynh hướng này cho phép một tài nguyên máy chủ hỗ trợ một phần mềm OS và ứng dụng truyền thống với một cặp NIC Ethernet và HBA Fibre Channel một cách kịp thời và sau đó được khởi động lại để chạy một môi trường ảo hóa với một
tổ hợp của tối đa 128 NIC và HBA, trong đó các NIC được kết nối trực tiếp với các máy ảo thông qua công nghệ nối thông (pass-through technology) của hypervisor.

Các máy chủ với định danh được lập trình theo nhu cầu
Phân cấp của các thành phần bao gồm một Hệ thống Điện toán Hợp nhất của Cisco, được kết hợp với năng lực để khai thác chúng sử dụng Cisco UCS Manager. Điều đó có nghĩa là các tổ chức có thể triển khai các máy chủ, và các tập hợp máy chủ với các cấu hình và định danh được xác định theo mô hình cung cấp theo nhu cầu. Cisco UCS Manager tự động hóa những hoạt động này và thực hiện chúng phù hợp với quy mô, giúp nâng cao cả hiệu suất và độ chính xác. Sự tự động hóa này đưa các tài nguyên vào hoạt động một cách nhanh chóng hơn, và nó cho phép các nhà quản trị dành nhiều thời gian
hơn để tập trung vào các vấn đề kinh doanh thay vì các tác vụ quản trị. Năng lực để di chuyển các tham số định danh UUID, WWN và  địa chỉ MAC từ máy chủ này sang máy chủ khác tạo ra một trung tâm dữ liệu thực sự năng động bởi vì không cần phải thay đổi cơ sở hạ tầng SAN và LAN vật lý. Chẳng hạn như, chúng ta hãy cùng xem xét một SAN trong đó việc phân vùng được thực hiện căn cứ trên WWN của HBA, và WWN được di chuyển từ một máy chủ phiến sang máy chủ phiến khác căn cứ trên một hồ sơ dịch vụ. Trong ví dụ này, việc phân vùng SAN và việc lập trình trong bộ điều khiển tủ lưu trữ không
nhất thiết phải thay đổi bởi vì định danh của giao diện vẫn không thay đổi.

Khám phá Thiết bị Tự động
Cisco UCS Manager thực hiện khám phá thiết bị tự động, với năng lực nhận biết bất kỳ tài nguyên nào ngay khi nó được kết nối với Hệ thống Điện toán Hợp nhất của Cisco. Sau khi một tài nguyên được cài đặt, Cisco UCS Manager bổ sung nó và các đặc tính của nó vào danh mục tài nguyên thệ thống, thậm chí là còn định cấu hình sẵn cho nó nếu một chính sách do nhà quản trị thiết đặt yêu cầu. Cisco UCS Manager có thể tập hợp các tài nguyên vào trong các “kho” tài nguyên chung và phân bổ chúng cho hoạt động sản xuất căn cứ trên các đặc tính cụ thể, như là số lượng CPU, dung lượng bộ nhớ,
và kiểu của adapter mạng được lắp đặt. Hình 3  thể hiện cách mà Cisco UCS Manager hiển thị danh sách tài nguyên hệ thống, một thông tin có thể được kết xuất để đáp ứng các yêu cầu về quản lý tài sản và thanh kiểm tra.

Hình 3.  Cisco UCS Manager khám phá các tài nguyên khi chúng được lắp vào hệ thống,bổ sung chúng vào danh mục thiết bị hoặc cung cấp chúng một cách tự động

Các ví dụ về ứng dụng
Năng lực để lựa chọn các tài nguyên phần cứng một cách tự do từ một kho tài nguyên và định cấu hình chúng sử dụng mô hình cung cấp theo nhu cầu giúp đơn giản hóa đáng kể rất nhiều so với tình huống triển khai trung tâm dữ liệu thông thường:
•  Một ứng dụng đang chạy trên một máy chủ với 96 GB bộ nhớ có thể được mở rộng để chạy hoàn toàn trong bộ nhớ bằng cách chuyển nó sang một máy chủ có 384 GB hoặc 256 GB bộ nhớ. Cisco UCS Manager chuyển các hồ sơ dịch vụ sang một máy chủ mới với các tài nguyên được lấy từ một kho tài nguyên phù hợp với các đặc tính của bộ nhớ cần thiết. Định danh và các giao diện I/O của máy chủ được định cấu hình giống như là trên máy chủ hiện tại để tránh bất kỳ vấn đề bất tương thích nào ở những nơi mà các địa chỉ này được định cấu hình hoặc được nạp đệm. Hệ điều hành và phần mềm ứng dụng chỉ thấy một quá trình tắt và khởi động lại máy đơn thuần, sau đó chúng hoàn toàn có thể hoạt động trên máy chủ mới.
•  Một loạt các tình huống của máy chủ web mới được triển khai nhờ đó các cấp độ dịch vụ có thể được đảm bảo trong một giai đoạn có đột biến về tải công việc. Cisco UCS Manager lấy các tài nguyên máy chủ từ một kho tài nguyên thích hợp và kích hoạt một khuôn mẫu dịch vụ để cung cấp từng tài nguyên theo một hồ sơ dịch vụ. Mỗi máy chủ được cung cấp với cùng một cấu hình I/O và kết nối mạng như là máy chủ web tiền phương (front-end web servers) được ứng dụng sử dụng.
•  Một nhóm máy chủ VMware ESX được mở rộng bằng cách bổ sung thêm một máy chủ với 384 GB bộ nhớ chính. Cisco UCS Manager cung cấp máy chủ sao cho mạng của nó kết nối với VLAN phù hợp và là một thành phần trong vùng SAN thích hợp để hypervisor có thể truy cập các file trên ổ đĩa ảo dùng chung của nhóm máy chủ. Hoạt động này cho phép phần mềm VMware vCenter với năng lực Lập lịch Tài nguyên Động của Vmware chuyển đổi các máy ảo đang hoạt động sang một trường hợp mới của máy chủ với cấu hình I/O và hồ sơ mạng đi theo một cách tự động mà không đòi hỏi sự can thiệp của nhà quản trị.

Một hệ thống hợp nhất, tích hợp
Cisco UCS Manager đồng bộ hóa các tài nguyên trong một Hệ thống Điện toán Hợp nhất của Cisco để chúng hoạt động cùng nhau dưới dạng một hệ thống tích hợp duy nhất. Ở bên ngoài, thiết bị chuyển mạch gán địa chỉ MAC và WWN của máy chủ với các giao diện hướng lên cụ thể để kết nối với các thiết bị chuyển mạch lớp tập trung lưu lượng Ethernet và Fibre Channel tiêu chuẩn. Ở bên trong, Cisco UCS Manager xử lý tất cả các hoạt động quản lý phần tử cần thiết để cung cấp các máy chủ và kết nối chúng với nhau theo các hồ sơ đã được ấn định trong đó xác định toàn diện về một cấu hình.
Với nhiệm vụ của một ứng dụng quản lý phần tử, Cisco UCS Manager tự động hóa hoạt động quản lý phần tử một cách toàn diện, đặc biệt là loại bỏ việc sử dụng rất phức tạp và dễ phạm sai sót các ứng dụng quản lý phần tử đơn lẻ cần thiết trong việc cung cấp một máy chủ, các giao diện và các kết nối mạng của nó. Các phần tử được quản lý bởi Cisco UCS Manager bao gồm:
•  Firmware BMC
•  Firmware và các cài đặt của bộ điều khiển RAID
•  Firmware và các cài đặt của BIOS, bao gồm cả UUID và trình tự khởi động của máy chủ
•  Firmware và các cài đặt của adapter mạng, bao gồm cả địa chỉ MAC và WWN cùng với các cài đặt về khởi động SAN
•  Các nhóm cổng ảo được sử dụng bởi các máy ảo dựa trên công nghệ Cisco VN-Link
•  Cấu hình kết nối, bao gồm cả các định nghĩa về kết nối hướng lên, hướng xuống, gán địa chỉ MAC và WWN,
VLAN, VSAN, QoS, phân bổ băng thông, cài đặt VN-Link và EtherChannels với các thiết bị chuyển mạch LAN lớp trên

Nâng cao mức độ ảo hóa 
Ngoài việc đơn giản hóa việc quản lý phần tử, Cisco UCS Manager còn nâng cao mức độ ảo hóa theo đó các phần tử được quản lý. Ví dụ như, tính năng VN-Link của thiết bị chuyển mạch trong Hệ thống Điện toán Hợp nhất của Cisco liên kết các NIC ảo được kết nối với các máy ảo với các cổng ảo nằm trên thiết bị chuyển mạch. Trong các môi trường ảo hóa, Cisco UCS Manager đảm bảo đồng bộ hoác các hồ sơ cổng ảo giữa VMware vCenter, máy chủ ESX
và chuyển mạch hợp nhất. Sau khi cấu hình ban đầu được hoàn tất, các hồ sơ cổng được đồng bộ với việc di chuyển máy ảo thông qua mặt phẳng điều khiển. Kết quả là các NIC được tạo ra và được kết nối với các máy ảo và các hồ sơ mạng trong mô hình cung cấp theo nhu cầu kể cả khi VMware VMotion di chuyển máy ảo giữa các máy chủ. Đây là quá trình tự động, không đòi hỏi có sự can thiệp của nhà quản trị trong các công cụ VMware vCenter hoặc Cisco UCS Manager.

Tác giả bài viết: DHCOM